Thứ Bảy, 16 tháng 11, 2013

GIỮ .....NỒI CƠM ...!!!

Những ai đã từng cầm lá phiếu đi bầu người đại diện cho mình ở cấp Quốc hội .hình như chỉ biết về vị đó qua bảng niêm yết ,trên các bảng tin treo chỗ bầu cử . Có mấy khi hiểu được có tài gì ,có trình độ gì trên thực tế cuộc sống trước đó . Họ chỉ căn cứ vào những dòng chữ ghi trên đó ,tóm tắt tiểu sử ,thành tích ,trình độ học vấn ,các chức vụ cấp bậc đã nắm và đang nắm .Và thế là 5 gạch bỏ một hay 5 gạch bỏ 2 tùy từng số ứng cử viên của  đơn vị bầu cử ,họ chỉ gạch theo cảm nhận ,theo những dòng chữ ghi trên bảng niêm yết .


 Những dòng chữ ghi tóm tắt chung chung rất trừu tượng và ''ảo'' ảo thực sự khi đó là những dòng chữ ghi trình độ :  Thạc sỹ,Tiến sỹ ,giáo sư ,phó giáo sư ,trưởng phó này nọ ,giám đốc này nọ . Người có trình độ thực sự thì ít lắm ,hơn nữa có trình lại cần có cái ''Tâm'' với đất nước với nhân dân lại càng ít. Những tiếng nói trung thực và dám đối trên nghị trường các cấp càng nhỏ càng mất hút . 

Ở các cấp thấp ,các mối quan hệ cán bộ địa phương, quan hệ anh em bạn bè là mối quan hệ dây mơ dễ má ,gắn bó với nhau ,liên kết với nhau qua các buổi ăn nhậu bất cứ ở chỗ nào hầu như đều có mặt nhau . Chính vì vậy họ lại càng ''nể'' nhau theo lối Tôi cần anh và ngược lại Anh cần Tôi. Không tin tưởng được họ ,30% sáng cắp ô đi, tối cắp ô về như lãnh đạo cấp cao đã phát biểu không sai , nhưng ông chưa nói hết , số 70 % còn lại họ làm được bao nhiêu công việc mà nhân dân giao cho họ . Ít lắm ,quá ít là đằng khác ,ví dụ một cán bộ địa chính xã và 3 nhân viên ,1 trong những công việc của họ là  xem xét và cấp trả cho nhân dân ''Sổ đỏ'' ,ở những vùng nông thôn đất Ông cha tổ nghiệp để lại bao nhiêu năm nay cũng vẫn chưa có ''Sổ đỏ'' rất nhiều ,không yêu cầu gì nhiều ,chỉ mong họ mỗi tháng họ làm khoảng 10 quyển , thì từ 1993 đến nay họ đã làm được rất nhiều nhưng không có nơi làm rồi vẫn không cấp ,để trong tủ để vòi tiền khi gia chủ cần chạy chọt cần vay mượn . nhiều lĩnh vực khác cũng vậy thôi...!
Đại biểu dân cử ở cấp cao hơn họ ít có các mối quan hệ dây mơ tình cảm như ở cấp thấp ,nhưng họ lại quan trọng cho sự phát triển của đất nước . họ có tâm ,có trình độ thực sự thì đất nước sẽ có cơ hội phát triển . Nhưng hiện nay có được mấy người trong 500 vị đại biểu kia ,nói cho ''vuông'' kể cả có 1/5 hay hơn nữa trong số đó có tâm có tầm cũng chả nên cơm nên cháo gì cho đất nước khi cái thể chế chính trị này tồn tại . 

Họ có phát biểu mạnh mẽ,có kiến nghị xây dựng luật nhằm đảm bảo quyền cho người dân và an sinh xã hội ,trật tự kỷ cương ,nhưng chính họ lại vẫn bấm nút thông qua ,bằng chứng là tỷ lệ thông qua rất cao qua mỗi kỳ họp  xây dựng luật.

Có luật rồi mà khi thực hiện còn méo mó ,và luật chỉ là những thứ trong sách vở văn bản , còn luật ''đời''luật ''rừng'' mới thực tế .Quyền lực không kiểm soát quyền lực , tại sao vậy ? 
Vì tao có ghế ngồi, tao có ''nồi cơm'' ăn không lẽ tao lại đổ bỏ ''nồi cơm'' của mình khi biết chắc thằng nào cũng lo giữ ''nồi cơm'' của mình ,chả sợ thằng nào cướp 

Thứ Sáu, 15 tháng 11, 2013

TUYÊN NGÔN NHÂN QUYỀN QUỐC TẾ (The Universal Declaration of Human Rights)



(Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua và công bố theo Nghị quyết số 217A (III) ngày 10/12/1948)

LỜI DẪN: Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (tiếng Anh: The Universal Declaration of Human Rights, UDHR) là tuyên ngôn về các quyền cơ bản của con người được Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948 tại Palais de Chaillot ở Paris, Pháp. Lâu đài Chaillot cũng là nơi lưu giữ VĂN BẢN gốc.

Văn bản được viết1948 bỡi các chính khách, nhà khoa học và ký giả yêu chuộng hòa bình và công lý, tự do bình đẳng và bác ái. Những tác giả tiêu biểu đại diện cho các nhóm năm trong Ủy ban soạn thảo là John Peters Humphrey (người Canada), René Cassin (người Pháp), P. C. Chang (người Trung Quốc), Charles Malik (người Liban), Eleanor Roosevelt (chủ tịch ủy ban soạn thảo, người Hoa Kỳ),...
Bà Eleanor Roosevelt, cựu đệ nhất phu nhân của Hoa Kỳ (vợ cố Tổng thống Franklin D. Roosevelt), được bầu làm chủ tịch Ủy ban dự thảo văn kiện.

Theo Giáo sư Paul Gordon Lauren (Canada), người cổ súy và nhà đấu tranh cho Nhân quyền hàng đầu thế giới, thì "thời điểm Ủy ban Nhân quyền đang dự thảo ngôn từ của Tuyên ngôn Nhân quyền, sự luân chuyển giữa phát triển và khủng hoảng quốc tế ngày càng trở nên trầm trọng:

• Liên bang Xô-viết áp đặt chính sách Tấm màn sắt đối với Đông Âu.
• Chiến tranh Lạnh giữa Hoa Kỳ và Liên bang Xô-viết ngày càng lan rộng.
• Cuộc chạy đua vũ trang – các loại vũ khí nguyên tử hủy diệt hàng loạt – ngày càng gia tăng.
• Bức tường Berlin được dựng lên
• Bạo lực bùng nổ tại các nước thuộc địa nhằm vào những người kiên quyết đứng lên đòi quyền tự quyết.
• Lực lượng quân đội của Mao Trạch Đông đang thắng lợi ở Trung Quốc.
• Xung đột vũ trang tại Palestine xoay quanh vấn đề thành lập một nhà nước Ixaren độc lập bùng nổ.
• Các cuộc bạo loạn vì vấn đề chủng tộc bùng nổ ở một số nước (bao gồm cả Hoa Kỳ).
• Ấn Độ công khai phản đối Nam Phi vì các chính sách phân biệt chủng tộc tại nước này.
• Mọi người dân bắt đầu thách thức các chính phủ bằng cách công bố những vụ vi phạm về nhân quyền ra trước thế giới".

Vì thế sự ra đời của Tuyên ngôn Nhân quyền cũng gặp nhiều khó khăn. Lúc đó, người ta coi UDHR chỉ là “một khuyến nghị không mang tính ràng buộc về mặt pháp lý”.
Trải qua 65 năm (1948-2013) UDHR đã trở thành "văn bản gốc" làm nền tảng cho các Bộ luật và Công ước mang tính ràng buộc tất yếu cho các nước trên thế giới.
Bộ Luật Nhân quyền Quốc tế (1948)
Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (1966)
Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa (1976)
... và Các văn kiện nhân quyền quốc tế và khu vực, như :
- Công ước châu Âu về Nhân quyền (1950);
- Công ước liên quan đến tình trạng của người tị nạn (1950);
- Công ước về quyền chính trị của phụ nữ (1952);
- Công ước về loại trừ các hình thức phân biệt chủng tộc (1965);
- Công ước về các quyền dân sự và chính trị (1966);
- Công ước về các quyền văn hóa, xã hội và kinh tế (1966);
- Công ước về nghiêm cấm và hình phạt tội phạm phân biệt chủng tộc (1973);
- Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (1967);
- Công ước về chống tra tấn, nhục hình, đối xử vô nhân đạo và hạ nhục con người (1984);
- Công ước quốc tế về quyền trẻ em (1989);
- Công ước về bảo vệ quyền của tất cả các công nhân nhập cư và các thành viên gia đình họ năm (1990).
- Công ước về quyền phát triển (1986);
- Công ước về các quyền và nhân phẩm con người (2007).
....

Điều trớ trêu là trong gần 30 nước chưa tham gia hoặc ký kết mà chưa thông qua Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị, có... Trung Quốc (ký 05 tháng 10, 1998, nhưng chưa thông qua). Một nước lớn cùng với Việt Nam, Nga,.. vừa được bầu vào Hội đồng Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc hôm 12/11/2013.

Việt Nam (theo báo chí truyền thông) đang tự hào vì trúng cử HĐNQ LHQ với số phiếu cao nhất (184/192). Công dân Việt Nam không thể không biết Tuyên Ngôn Quốc tế về Nhân Quyền (UDHR) và các Công ước liên quan ! Từ nay, mọi người có thể mang theo tờ rơi về UDHR và các Công ước mà Việt Nam đã tham gia phân phát cho nhân dân mà không bị làm khó dễ 

UDHR đã từng được các Facebooker đăng tải lâu nay. Nhưng nhân dịp "chiến thắng ngoạn mục của Việt Nam trên trường quốc tế về Nhân quyền",Tôi xin đăng lại UDHR bằng tiếng Việt !

Xin chia sẻ với các bạn và biến nó thành hiện thực trên đất nước thân yêu của chúng ta !

Eleanor Roosevelt (người tham gia soạt thảo) cầm bản dịch tiếng Tây Ban Nha của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền
Eleanor Roosevelt (người tham gia soạt thảo) cầm bản dịch tiếng Tây Ban Nha của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền


LỜINÓI ĐẦU

Với nhận thức rằng:
Việc thừa nhận phẩm giá vốncó, các quyền bình đẳng và không thể tách rời của mọi thành viên trong gia đìnhnhân loại là cơ sở cho tự do, công bằng và hoà bình trên thế giới;
Sự coi thường và xâm phạm các quyền con người đã dẫn đến những hành độngtàn bạo xúc phạm tới lương tâm nhân loại, và việc xây dựng một thế giới trongđó con người được tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, không còn phải chịu nỗi sợhãi và nghèo khổ cùng cực, được coi là khát vọng cao nhất của loài người,
Điều cốt yếu là quyền conngười cần phải được pháp luật bảo vệ để con người không buộc phải nổi dậy nhưlà một biện pháp cuối cùng nhằm chống lại sự độc tài và áp bức.

Việc thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc là rất cần thiết.
Các dân tộc thuộc Liên Hợp Quốc đã tái khẳng định trong Hiến chương niềmtin vào các quyền cơ bản của con người, vào nhân phẩm và giá trị của mỗi conngười, vào các quyền bình đẳng giữa nam và nữ, và đã bày tỏ quyết tâm thúc đẩysự tiến bộ xã hội cũng như xây dựng các điều kiện sống tốt hơn, với sự tự dorộng rãi hơn;
Các quốc gia thành viên đã cam kết, cùng với Liên Hợp Quốc, phấn đấuthúc đẩy sự tôn trọng và tuân thủ chung các quyền và tự do cơ bản của conngười;
Sự nhận thức thốngnhất về các quyền và tự do kể trên là yếu tố quan trọng nhất để thực hiện đầyđủ cam kết này.

Do đó, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc công bố,

Bản Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người này là thước đo chungcho tất cả các quốc gia và các dân tộc, và cho cả mọi cá nhân và tổ chức xãhội, đánh giá việc thực hiện các mục tiêu của mình mà, trên cơ sở luôn ghi nhớbản Tuyên ngôn này, sẽ phấn đấu thúc đẩy sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bảncủa con người thông qua truyền bá và giáo dục; cũng như thúc đẩy sự thừa nhậnvà tuân thủ chung và hữu hiệu các quyền đó không chỉ với người dân nước mình màvới cả các dân tộc ở các lãnh thổ thuộc quyền quản thác của nước mình, thôngqua các biện pháp tích cực, kể cả trong phạm vi quốc gia và quốc tế.

Điều 1.
Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và các quyền.Mọi người đều được tạo hoá ban cho lý trí và lương tâm, và cần phải đối xử vớinhau bằng tình anh em.

Điều 2.
Mọi người đều được hưởng tất cả các quyền và tự donêu trong bản Tuyên ngôn này mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào vềchủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quanđiểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hay cácđịa vị khác.
Ngoài ra, cũng không có bất cứ sự phân biệt nào với một người mà dựatrên địa vị chính trị, pháp lý hoặc quốc tế của quốc gia hoặc lãnh thổ mà ngườiđó xuất thân, dù đó là lãnh thổ độc lập, uỷ trị, quản thác, chưa được tự quảnhay đang phải chịu bất kỳ hạn chế nào khác về chủ quyền.

Điều 3.
Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân.

Điều 4.
Không ai bị bắt làm nô lệ hoặc bị cưỡng bức làm việc như nô lệ; mọi hìnhthức nô lệ và buôn bán nô lệ đều bị cấm.

Điều 5.
Không ai bị tra tấn hay bị đối xử, xử phạt một cách tàn bạo, vô nhân đạohoặc hạ thấp nhân phẩm.

Điều 6.
Mọi người đều có quyền được công nhận tư cách là con người trước phápluật ở mọi nơi.

Điều 7.
Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ mộtcách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt nào. Mọi người đều có quyền đượcbảo vệ một cách bình đẳng chống lại bất kỳ sự phân biệt đối xử nào vi phạm bảnTuyên ngôn này, và chống lại bất kỳ sự kích động phân biệt đối xử nào như vậy.

Điều 8.
Mọi người đều có quyền được các toà án quốc gia cóthẩm quyền bảo vệ bằng các biện pháp hữu hiệu để chống lại những hành vi viphạm các quyền cơ bản của họ mà đã được hiến pháp hay luật pháp quy định.

Điều 9.
Không ai bị bắt, giam giữ hay lưu đày một cách tuỳ tiện.

Điều 10.
Mọi người đều bình đẳng về quyền được xét xử công bằng và công khai bởimột toà án độc lập và khách quan để xác định các quyền và nghĩa vụ của họ, cũngnhư về bất cứ sự buộc tội nào đối với họ.

Điều 11.
1. Mọi người, nếu bị cáo buôc về hình sự, đều có quyền được coi là vôtội cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo pháp luật, tại một phiên toàxét xử công khai, nơi người đó được bảo đảm những điều kiện cần thiết để bàochữa cho mình.
2. Không ai bị cáo buộc là phạm tội vì bất cứ hành vi hoặc sự tắc trách nào mà không cấu thành một phạm tội hình sự theopháp luật quốc gia hay pháp luật quốc tế vào thời điểm thực hiện hành vi hay cósự tắc trách đó. Cũng không ai bị tuyên phạt nặng hơn mức hình phạt được quyđịnh vào thời điểm hành vi phạm tội được thực hiện.

Điều 12.
Không ai phải chịu sự can thiệp một cách tuỳ tiện vào cuộc sống riêngtư, gia đình, nơi ở hoặc thư tín, cũng như bị xúc phạm danh dự hoặc uy tín cánhân. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại sự can thiệp vàxâm phạm như vậy.

Điều 13.
1. Mọi người đều có quyền tự do đi lại và tự do cư trú trong phạm vilãnh thổ của quốc gia.
2. Mọi người đều có quyền rời khỏi bất kỳ nước nào, kể cả nước mình,cũng như có quyền trở về nước mình.

Điều 14.
1. Mọi người đều có quyền tìm kiếm và được lánh nạn ở nước khác khi bịngược đãi.
2. Quyền này không được áp dụng trong trường hợp đương sự bị truy tố về những tội phạm không mang tính chấtchính trị hay vì những hành vi đi ngược lại với những mục tiêu và nguyên tắccủa Liên Hợp Quốc.

Điều 15.
1. Mọi người đều có quyền có quốc tịch của một nước nào đó.
2. Không ai bị tước quốc tịch hoặc bị khước từ quyền được đổi quốc tịchmột cách tuỳ tiện.

Điều 16.
1. Nam và nữ khi đủ tuổi đều có quyền kết hôn và xây dựng gia đình màkhông có bất kỳ sự hạn chế nào về chủng tộc, quốc tịch hay tôn giáo. Nam và nữcó quyền bình đẳng trong việc kết hôn, trong thời gian chung sống và khi lyhôn.
2. Việc kết hôn chỉ được tiến hành với sự đồng ý hoàn toàn và tự nguyệncủa cặp vợ chồng tương lai.
3. Gia đình là tế bào tự nhiên và cơ bản của xã hội, được nhà nước và xãhội bảo vệ.

Điều 17.
1. Mọi người đều có quyền sở hữu tài sản của riêng mình hoặc tài sản sởhữu chung với người khác.
2. Không ai bị tước đoạt tài sản một cách tuỳ tiện.

Điều 18.
Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo, kể cả tựdo thay đổi tín ngưỡng hoặc tôn giáo của mình, và tự do bày tỏ tín ngưỡng haytôn giáo của mình bằng các hình thức như truyền giảng, thực hành, thờ cúng vàtuân thủ các nghi lễ, dưới hình thức cá nhân hay tập thể, tại nơi công cộnghoặc nơi riêng tư.

Điều 19.
Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ ý kiến; kể cả tự do bảolưu quan điểm mà không bị can thiệp; cũng như tự do tìm kiếm, tiếp nhận vàtruyền bá các ý tưởng và thông tin bằng bất kỳ phương tiện truyền thông nào,vàkhông có giới hạn về biên giới.

Điều 20.
1. Mọi người đều có quyền tự do hội họp và lập hộimột cách hoà bình.
2. Không ai bị ép buộc phải tham gia vào bất cứ hiệp hội nào.

Điều 21.
1. Mọi người đều có quyền tham gia quản lý đất nước mình, một cách trựctiếp hoặc thông qua các đại diện mà họ được tự do lựa chọn.
2. Mọi người đều có quyền được tiếp cận các dịch vụ công cộng ở nướcmình một cách bình đẳng.
3. ý chí của nhân dân phải là cơ sở tạo nên quyền lực của chính quyền; ýchí đó phải được thể hiện qua các cuộc bầu cử định kỳ và chân thực, được tổchức theo nguyên tắc phổ thông đầuphiếu, bình đẳng và bỏ phiếu kín, hoặc bằng những thủ tục bầu cử tự do tươngtự.

Điều 22.
Với tư cách là một thành viên của xã hội, mọi người đều có quyền đượchưởng an sinh xã hội cũng như được hưởng các quyền kinh tế, xã hội, văn hoákhông thể thiếu để bảo đảm nhân phẩm và tự do phát triển về nhân cách;thông qua những nỗ lực quốc gia và sự hợp tác quốc tế; phù hợp với hệ thống tổchức và nguồn lực của mỗi quốc gia.

Điều 23.
1. Mọi người đều có quyền làm việc, quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp,được hưởng những điều kiện làm việc công bằng, thuận lợi và được bảo vệ chốnglại nạn thất nghiệp.
2. Mọi người đều có quyền đượctrả công ngang nhau cho những công việc như nhau mà không có bất kỳ sự phânbiệt đối xử nào.
3. Mọi người lao động đều có quyền được hưởng chế độ thù lao công bằngvà hợp lý nhằm bảo đảm sự tồn tại của bản thân và gia đình xứng đáng với nhânphẩm, và được trợ cấp khi cần thiết bằng các biện pháp bảo trợ xã hội.
4. Mọi người đều có quyền thành lập hoặc gia nhập công đoàn để bảo vệcác quyền lợi của mình.

Điều 24.
Mọi người đều có quyền nghỉ ngơi và thư giãn, kể cả quyền được giới hạnhợp lý số giờ làm việc và được hưởng những ngày nghỉ định kỳ có hưởng lương.

Điều 25.
1. Mọi người đều có quyền được hưởng một mức sống thích đáng, đủ để đảmbảo sức khoẻ và phúc lợi của bản thân và gia đình, về các khía cạnh ăn, mặc, ở,chăm sóc y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết, cũng như có quyền được bảo hiểmtrong trường hợp thất nghiệp, đau ốm,tàn phế, góa bụa, già nua hoặc thiếu phương tiện sinh sống do những hoàn cảnhkhách quan vượt quá khả năng đối phó của họ.
2.Các bà mẹ và trẻ em có quyền được hưởng sự chăm sóc và giúp đỡ đặcbiệt. Mọi trẻ em, dù sinh ra trong hay ngoài giá thú, đều phải được hưởng sựbảo trợ xã hội như nhau.

Điều 26.
1. Mọi người đều có quyền được học tập. Giáo dục phải miễn phí, ít nhấtlà ở các bậc tiểu học và trung học cơ sở. Giáo dục tiểu học phải là bắt buộc.Giáo dục kỹ thuật và dạy nghề phải mang tính phổ thông và giáo dục đại học haycao hơn phải theo nguyên tắc công bằng cho bất cứ ai có khả năng.
2. Giáo dục phải nhằm giúp con người phát triển đầy đủ về nhân cách vàthúc đẩy sự tôn trọng với các quyền và tự do cơ bản của con người. Giáo dụccũng phải nhằm tăng cường sự hiểu biết, lòng khoan dung và tình hữu nghị giữatất cả các dân tộc, các nhóm chủng tộc hoặc tôn giáo, cũng như phải nhằm đẩymạnh các hoạt động của Liên Hợp Quốc về duy trì hoà bình.
3. Cha mẹ có quyền ưu tiên lựa chọn các hình thức giáo dục cho con cáihọ.

Điều 27.
1. Mọi người có quyền tự do tham gia vào đời sống văn hoá của cộng đồng,được thưởng thức nghệ thuật và chia sẻ những tiến bộ khoa học cũng như nhữnglợi ích xuất phát từ những tiến bộ khoa học.
2. Mọi người đều có quyền được bảo vệ các quyền lợi vật chất và tinhthần phát sinh từ bất kỳ sáng tạo khoa học, văn học hay nghệ thuật nào mà ngườiđó là tác giả.

Điều 28.
Mọi người đều có quyền được hưởng một trật tự xã hội và quốc tế mà trongđó các quyền và tự do cơ bản nêu trong bản Tuyên ngôn này có thể được thực hiệnmột cách đầy đủ.

Điều 29.
1. Mọi người đều có những nghĩa vụ đối với cộng đồng là nơi duy nhất màở đó nhân cách của bản thân họ có thể phát triển tự do và đầy đủ.
2. Khi hưởng thụ các quyền và tự do của mình, mọi người chỉ phải tuânthủ những hạn chế do luật định, nhằm mục đích bảo đảm sự công nhận và tôn trọngthích đáng đối với các quyền và tự do của người khác, cũng như nhằm đáp ứngnhững yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trongmột xã hội dân chủ.
3. Trong mọi trường hợp, việcthực hiện các quyền tự do này cũng không được trái với các mục tiêu và nguyêntắc của Liên Hợp Quốc.

Điều 30.
Không được diễn giải bất kỳ điều khoản nào trong bản Tuyên ngôn này theohướng ngầm ý cho phép bất kỳ quốc gia, nhóm người hoặc cá nhân nào được quyềntham gia vào bất cứ hoạt động hoặc thực hiện bất kỳ hành vi nào nhằm mục đíchphá hoại bất kỳ quyền hoặc tự do nào nêu trong bản Tuyên ngôn này.

LiênHiệp Quốc, ngày 10 tháng 12 năm 1948

Nguồn tham khảo:
- http://www.un.org/en/documents/udhr/index.shtml
- http://www.un.org/en/documents/udhr/hr_law.shtml
- http://en.wikipedia.org/wiki/Universal_Declaration_of_Human_Rights
Bảo đồ các nước tham gia "Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị"
Eleanor Roosevelt (người tham gia soạt thảo) cầm bản dịch tiếng Tây Ban Nha của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền

Thứ Bảy, 26 tháng 10, 2013

TỪ CHỨC


Nếu ở một đất nước có nền Chính trị đa nguyên ,đa đảng - Với vị thế một Đảng cầm quyền . Và vì lý do nào đó ,một thành viên trong Nội các mắc sai lầm dù trực tiếp hay gián tiếp - từ chức là lựa chọn ''đẹp''

- VỀ CÁ NHÂN :Tự thân cá nhân đó vì danh dự, vì Lương và vì Tri....

-VỀ TỔ CHỨC : đây là chuyện sống còn của một tổ chức ,cụ thể là một
Đảng ,nhất là đảng đó đang cầm quyền .Các thành viên của đảng đó sẽ ''vỗ vai '' cho kẻ mắc lỗi đó tự nguyện rời thuyền .Bởi đó là sinh mạng chính trị , là quyền lợi sát sườn của những người trên thuyền, họ gỡ bỏ một ''ngòi nổ'' nguy hại mà những sự CẠNH TRANH khác ,chắc chắn sẽ khoét sâu vào gót chân Asin đó .

Từ chức ,nó không thuộc về pháp lý . Chính vì vậy không có chế tài để buộc một kẻ bất tài,kẻ mất lòng dân chúng , hay kẻ phạm sai lầm từ chức . Từ chức ,thuộc về văn hóa , về lương tâm,tri thức . Trên đất nước Việt nam này thứ văn hóa ấy hình như mới có Bộ trưởng Lê Huy Ngọ xin từ chức sau vụ Lã TK Oanh ,do lỗi của cấp dưới .

Tiến Kim Tiêm - Tôi muốn gọi kiểu khác tệ hơn ,nhưng thôi không cần nữa . Bởi tiếng ''thối'' của bà đã vang danh thiên hạ rồi .Nếu bà không đọc báo ,thì Con cháu của Bà , anh em nội ngoại của Bà cũng sẽ có người đọc . Tôi tin rằng đôi tai của bà chưa điếc hẳn , đôi mắt của Bà vẫn còn nhìn được chữ . Vậy thì tại sao Bà cứ ôm khư khư lấy cái ghế đó ? khi mỗi ngày đầy rẫy những tít ''dã man, kinh hoàng,động trời ,bất nhân '' liên quan đến lĩnh vực của Bà ,xuất hiện nhan nhản trên mặt báo ,đôi khi tôi chỉ lướt qua dòng tít mà không đọc nội dung ,vì nó diễn ra triền miên , đều giống nhau ở điểm bất nhân ,vô đạo đức ,tham tiền .

Tiến Kim Tiêm - dù tai tiếng đã rất nhiều ,bà cũng chính thức đã được ghi vào sử sách với những bê bối của nghành y trong những tháng năm này . Chắc chắn không thể gột rửa trong nhân gian .Nếu nước mắt bà có chảy ,cùng với những câu nói tiếc thương ,phẫn nộ cho một vụ việc nào đó . cũng không làm nên được một điều gì ......

BỞI VÌ BÀ BẤT TÀI ! Bà đã và sẽ không thể làm gì được hơn cho sự thảm hại của ngành Y TỆ hiện nay . Bà còn chần chờ gì nữa ,mà không vớt vát một chút cho bà và cho đồng đảng của bà ?

Chủ Nhật, 6 tháng 10, 2013

VĂN HÓA XẾP HÀNG

Nhân mới đây tôi tham gia một page : KHUYẾN HỌC - LUẬN & BÌNH - HỌC ĐỂ NƯỚC VIỆT VƯỢT NHẬT . tôi không tán thành chữ :vượt Nhật ,mong được ngang bằng họ về văn hóa ứng xử ,văn hóa xếp hàng ,văn hóa giáo dục con cái . Còn nói về kinh tế thì không bao giờ dám mơ tới sánh ngang họ ,chứ đừng nói tới vượt họ.

Chỉ một việc xếp hàng ,người Nhật đã làm nên một phong cách ,một bản sắc ,một nét văn hóa rất hay rất đẹp . Không cần tốn nhiều tiền để quảng bá hình ảnh nước Nhật ,và ai ai cũng có thể làm được điều này . trong khi đó VN tổ chức quảng bá hình ảnh trên CNN tốn biết bao nhiêu mới có được những phút xuất hiện trên đó, biết bao nhiêu những cuộc phát động hình thức ,mà hiệu quả lại như ''Dã tràng xe cát'' , nhạt nhòa ngay sau mỗi sự kiện .

Ý thức xếp hàng của người Nhật đã trở thành văn hóa và nó đã ăn sâu vào trong ý thức của mọi tầng lớp người dân Nhật .
 Không phải người nhật thừa thời gian  (ảnh internet)

Họ không thừa thời gian ,và họ cũng không hoàn toàn thích xếp hàng chờ đợi . Nhưng xếp hàng đã là một thứ văn hóa ăn sâu vào nhận thức của họ, như là một hành động được ''lập trình'' trong tiềm thức . Giống như nhiều người dân VN ,hành động chen lấn, xô đẩy ,tranh cướp cũng như đã được ''lập trình'' sẵn vậy.


Một Chương trình : Đổi mũ bảo hiểm miễn phí


-Trận Sóng thần kinh hoàng nhất trong lịch sử của nước Nhật dường như không ảnh hưởng tới tính cách người dân nước này: luôn thể hiện sự quan tâm tới người khác ngay cả khi họ rơi vào những tình huống kém may mắn nhất
Hình ảnh một chiếc xe chở hàng cứu trợ tại một Sân vận động ,và một hàng Người dài ngoằn ngoèo trên sân vận động xếp hàng chờ tới lượt mình ,mà chưa biết đến lượt mình có còn hay hết hàng . Hình ảnh ấy thật đáng nể ,nếu ở VN chắc xe hàng đã được vây kín .Người Nhật họ có ý thức ngay cả trong những Game online ,hay nói chính xác hơn ,đó không còn là ý thức nữa mà là một sự hiển nhiên bình thường .
Xếp hàng ngay cả trong Game ,như một sự hiển nhiên bình thường trong ý thức của Người nhật
Xếp hàng ,trong ý thức của Người nhật , là một điều tất nhiên ,không cần ai chỉ bảo dạy giỗ nữa . Ngay cả các cháu nhỏ ,cũng có thói quen này ,vì chúng thấy điều này qua những người xung quanh chúng .Câu chuyện về bà Lara Bush ,dù đã đến chân tượng đài Washington mấy lần và rất muốn leo lên đó ,nhưng ngán phải xếp hàng lâu . VN ta thì sao ,hãy nhìn ngày hôm qua xem hình ảnh phản ánh điều gì .Người dân thì từ khắp nơi đến viếng Đại tướng ,xếp hàng dài hàng km ,còn Ông phó thủ tướng trán cao miệng rộng ,tướng vệ oai phong ,có lẽ ông oai quá nên coi xung quanh dân tình ''liệt vị'' hết . 
Muốn ...như ta..thì  phấn đấu ...đê

Chủ Nhật, 22 tháng 9, 2013

LA ...VẪN CHỈ LÀ ....LA

Bài của Trịnh hự - làm em Nhật Lệ nó hoảng ,em nó nhờ ........La hộ ! nhưng La ...thì cố ''la'' lấy được .vì La là sản phẩm F2 nên chỉ có vậy thôi - cố ''la'' nhưng La vẫn chỉ là La

 Xem phần tự bạch bản thân của Đông La ,đưa giải thưởng của hội nhà văn thành phố vào phần giới thiệu bản thân ,để cho thiên hạ biết ta đã từng được giải thưởng ,chứng tỏ ta là người có chữ .....ờ thì đúng rồi ,nhưng văn nó khác đời và khác với những chuyện này lắm. ai mà không biết những thứ phù phiếm đó ,mấy ông hưu trí quê tôi cũng làm con cháu được bữa chén vui vẻ vì các cụ được trao giải thơ hưu trí .dù có mệt và có hao túi nhưng làm các cụ vui nên con cháu cũng mát lòng mát dạ.

Một bài nhạt như nước ốc vì ốc vốn nhạt thế thôi,không lẽ em nó tin tưởng cầu cứu ,không chừng còn đặt hết hy vọng vào Đông La ,vì bài của Trịnh hự đã làm cho nhóm các em nó khó thấy chỗ nào không logic với những lập luận và dẫn chứng chính xác ,sắc xảo của Trịnh hự.có lẽ các em đã tốn không ít tiền để trả nhà đèn vì ngồi với nhau nhiều giờ để ''soi'' và tìm cách đối đáp vặn vẹo bài của Trịnh hự . 

Cuối cùng thì những cái đầu còn non nớt đó ,bên trong chỉ chứa những luận điệu tuyên huấn ,tuyên giáo ,những kiến thức đảng ,đoàn và những khẩu hiệu Niềm tin tất thắng,cùng với suy nghĩ :kẻ kia là địch - kẻ kia là địch  ....vậy thì đành bó đầu ôm chán là đúng thôi. Có lẽ bạn nào có phát kiến nhờ đến Đông La ,một là cố tình hại nhóm ''phản bác 258'' hai là ...biết đâu lại có ''nội gián'' Ai là ''nội gián '' khai mau - ai lại xui các bạn ấy nhờ đến Đông La cơ chứ .

Đông La có lẽ cũng bí bách về sự ''nhờ'' này ,vì  cần phải đối đáp gấp ,càng nhanh càng đỡ bất lợi ,vì muốn chứng tỏ cho phía ra ''tuyên bố 258'' rằng : ta đây không phải vừa ! Nhưng khổ nỗi ,khi đọc bài của Trịnh hự ,như va phải trái Núi ,nó sừng sững ,chắc nịch .

Không thể bó tay chấm com được ,ừ thì quyết tâm nào .Gọi chúng nó đến bàn bạc,chat room ,thảo luận .Cuối cùng thì cũng ra được sản phẩm ,sản phẩm lắp ghép của một tập hợp mà nguyên liệu là những thứ viển vông .Thế giới chỉ còn mấy quái thai dị dạng ,mà những kẻ có quyền hành đang chăn dắt thành công những thế hệ F2 .
--------------------------------------------------------------
http://blog.trinhhuulong.com/2013/09/trao-oi-voi-hoang-thi-nhat-le-va-ong-la.html#more
http://donglasg.blogspot.com/2013/09/trinh-huu-long-au-tri-va-ngu-ngo-ve.html

Thứ Tư, 4 tháng 9, 2013

CŨNG BỞI THẰNG DÂN.......

Tổ sư cha những thằng độc tài - tham nhũng
 .
-Những công trình ngàn tỷ ,vài ngàn tỷ ,hơn chục ngàn tỷ ,chi cho đại lễ ngàn năm ,hay xây nhà bảo tàng HN ,đã làm ngu dân hơn.chứ không phải khai trí



- Một đất nước chỉ thấy những banner khẩu hiệu ,áp phích cổ động tuyên truyền khắp nơi .đất nước ấy đang bị dẫn dắt bởi một chính quyền muốn ngu dân dễ bề cai trị.gần đây nhất ,tại xã Phùng xá -Thạch thất -Hà nội , hàng ngàn thanh niên tham gia làm 1con đường dài 700m ,hiệu quả ở đâu .điều này nó phản ánh không phải ở con đường ,mà chứng minh cho thói tư duy kiểu nhét vòi bơm vào lỗ đ .


Ngay cả những cấp thấp nhất trong hệ thống cai trị cũng bị ý thức hệ làm mê muội .mà thực hiện mệnh lệnh một cách cứng nhắc nhưng hời hợt ,vô tri vô giác.đâu đâu cũng khẩu hiệu ,banner ,áp phích ,băng rôn căng đầy đường,làm tốn tiền thuế của dân đóng góp ,là miếng mồi cho những con chuột la liếm .thợ may ăn vải ,thợ vẽ ăn hồ.đến lúc nào đất nước tôi mới dẹp bỏ những khẩu hiệu cổ động này được đây.



- Một đất nước có kẻ cầm quyền,luôn đề cao thần thánh hóa một con người một cách thái quá,kẻ cầm quyền ấy là lừa dân ,mị dân.không có vĩ nhân nào là hoàn hảo ,họ cũng chỉ là một con người ,có sai ,có đúng .hãy để lịch sử phán xét và vinh danh công tội .hãy để cho nhân dân tự nhìn nhận .chính quyền hiện nay có thể đang thắng vì đã tuyên truyền hết sức tích cực và kiên trì ,bền bỉ .đa số dân VN vô cảm với chính trị ,họ đã và đang tin .nhưng bánh xe lịch sử sẽ không lặp lại .với một thế giới phẳng ,và quy luật của thời đại .không có gì là bất biến cả ,một khi cộng sản đã thất thế sẽ không có cơ hội quay trở lại nắm quyền ,bởi những gì họ đã làm trước đó.Người dân sẽ không còn tin họ nữa .




-Một đất nước đang giết chết những sáng tạo ,tư duy độc lập của lớp trẻ . họ bị những ràng buộc tư tưởng bởi ý thức hệ,đã làm cho tư duy COCC ngự trị .giết chết cả những vị có trình độ học vấn ,khi leo lên chiếc ghế địa vị quyền lực là ngồi im hưởng lộc và tìm cách hưởng lộc . không cần nghiên cứu sáng tạo .bởi có quá nhiều thứ ngăn cản ,cả về điều kiện lẫn tư tưởng .


Hỡi những người dân tôi ,Việt nam ơi ! Hỡi cụ Tản Đà ơi : hơn 80 năm rồi ,thơ của cụ sao còn nóng thế .

Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn


Cho nên quân nó dễ làm Quan 

Thứ Ba, 27 tháng 8, 2013

Một thời gian dài,những tác phẩm của LQV như hòa cùng làn sóng Đổi mới ,giàu tính hiện thực,phản ánh sâu sắc những sự việc,con người thời ấy ,cả những quan điểm lối sống của một thời bao cấp .lớp thanh niên như tôi hồi đó ,không được tiếp xúc với các phương tiện nghe nhìn như bây giờ ,cho nên được ngồi tụ tập cùng g/đ ,uống nước chè xanh và nghe Chương Trình : Sân khấu truyền thanh trên Đài vào mỗi tối thứ 7 là thích rồi .

Còn nhớ làn sóng Đổi mới thời Ô.Nguyễn văn Linh 1986 với nhưng NVL ( nói và làm) và những vở kịch đầy tính thời cuộc lúc đó của LQV ,khiến cho sự háo hức như được cởi trói của người dân râm ran khắp nơi . Những việc ngăn sông cấm chợ được dỡ bỏ,những trạm kiểm soát hàng hóa không còn nữa .Hàng hóa được tự do lưu thông ,rồi nghị quyết 10 được hình thành ,cởi trói cho Nông dân ,hai điều này ra đời cũng có nguyên nhân lớn do lúc đó các tỉnh Miền bắc '' đói nặng '' .khiến chính phủ phải yêu cầu LHQ viện trợ khẩn cấp

Đổi mới ở Việt nam - Perestroika ở Liên xô .Nguyễn văn Linh - Gorbachov những sự liên tưởng của tôi ngày ấy là thế
Những gì LQV viết trong :Tôi và chúng ta Lời thề thứ 9 ,Hồn Trương Ba da Hàng Thịt vv...vẫn rất cần cho cuộc sống hôm nay khi mà sự tử tế, tình người cứ nhạt dần trong những "Tấn trò đời" mà cách đây vài chục năm, Lưu Quang Vũ đã thể hiện qua tư duy và ngòi bút sắc sảo của mình.






Tôi ước ao lại có một ''Đổi mới'' nữa ,chỉ có thể thay mới chứ không thể là ''cải tổ''. một cái nhà đã rệu rã chỉ có phá đi là nhanh nhất .

Vở kịch của LQV : Nếu anh không đốt lửa được lấy cảm hứng từ bài thơ của Nadim Hitmét:

Nếu tôi không đốt lửa

Nếu anh không đốt lửa

Nếu chúng ta không đốt lửa

Thì làm sao

..bóng tối có thể

.....trở thành

........Ánh sáng